Tác Giả: Lewis Jackson
Ngày Sáng TạO: 7 Có Thể 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 18 Tháng MườI MộT 2024
Anonim
Tâm bệnh học_Rối loạn khí sắc (2)_ Rối loạn lưỡng cực
Băng Hình: Tâm bệnh học_Rối loạn khí sắc (2)_ Rối loạn lưỡng cực

NộI Dung

Giới thiệu

Rối loạn lưỡng cực là một trong những rối loạn thần kinh được điều tra nhiều nhất. Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia (NIMH) ước tính rằng nó ảnh hưởng đến gần 4,5% người trưởng thành tại Hoa Kỳ. Trong số này, gần 83 phần trăm có các trường hợp rối loạn nghiêm trọng trên mạng.

Thật không may, do sự kỳ thị của xã hội, vấn đề tài chính và thiếu giáo dục, ít hơn 40 phần trăm những người mắc chứng rối loạn lưỡng cực nhận được những gì mà NIMH gọi là điều trị tối thiểu. Những thống kê này có thể làm bạn ngạc nhiên, dựa trên nhiều thế kỷ nghiên cứu đã được thực hiện về điều kiện sức khỏe tâm thần tương tự này.

Con người đã cố gắng giải mã các nguyên nhân gây ra rối loạn lưỡng cực và xác định phương pháp điều trị tốt nhất cho nó từ thời cổ đại. Đọc để tìm hiểu về lịch sử của rối loạn lưỡng cực, có lẽ phức tạp như chính điều kiện.

Khởi đầu cổ đại

Aretaeus ở Cappadocia bắt đầu quá trình chi tiết các triệu chứng trong lĩnh vực y tế ngay từ thế kỷ 1 ở Hy Lạp. Những ghi chú của ông về mối liên hệ giữa hưng cảm và trầm cảm hầu như không được chú ý trong nhiều thế kỷ.


Người Hy Lạp và La Mã cổ đại chịu trách nhiệm về các thuật ngữ của man man Hồi và Cam melancholia, hiện nay là thời hiện đại của Man manic và và trầm cảm. Họ thậm chí còn phát hiện ra rằng sử dụng muối lithium trong phòng tắm làm dịu những người hưng cảm và nâng đỡ tinh thần của những người trầm cảm. Ngày nay, lithium là một điều trị phổ biến cho những người bị rối loạn lưỡng cực.

Nhà triết học Hy Lạp Aristotle không chỉ thừa nhận sự u sầu là điều kiện, mà còn trích dẫn nó như nguồn cảm hứng cho các nghệ sĩ vĩ đại trong thời đại của ông.

Trong thời gian này, mọi người trên toàn cầu đều bị xử tử vì rối loạn lưỡng cực và các tình trạng tâm thần khác. Khi nghiên cứu về y học tiến bộ, giáo điều tôn giáo nghiêm ngặt tuyên bố rằng những người này bị quỷ ám và do đó nên bị xử tử.

Các nghiên cứu về rối loạn lưỡng cực trong thế kỷ 17

Vào thế kỷ 17, Robert Burton đã viết cuốn sáchGiải phẫu của u sầu, Mà đề cập đến vấn đề điều trị u sầu (trầm cảm không đặc hiệu) bằng âm nhạc và khiêu vũ.


Mặc dù pha trộn với kiến ​​thức y học, cuốn sách chủ yếu phục vụ như một bộ sưu tập văn học bình luận về trầm cảm và một điểm thuận lợi về những ảnh hưởng đầy đủ của trầm cảm đối với xã hội.

Tuy nhiên, nó đã mở rộng sâu vào các triệu chứng và phương pháp điều trị của bệnh mà bây giờ được gọi là trầm cảm lâm sàng: rối loạn trầm cảm chính.

Cuối thế kỷ đó, Theophilus Bonet đã xuất bản một tác phẩm tuyệt vời có tên làSepuchretum, Một văn bản rút ra từ kinh nghiệm của mình khi thực hiện 3.000 lần khám nghiệm tử thi. Trong đó, anh liên kết hưng cảm và u sầu trong một tình trạng gọi là man manico-melancholicus.

Đây là một bước đáng kể trong chẩn đoán rối loạn vì hưng cảm và trầm cảm thường được coi là rối loạn riêng biệt.

Những khám phá của thế kỷ 19 và 20

Nhiều năm trôi qua và rất ít thông tin mới được phát hiện về rối loạn lưỡng cực cho đến thế kỷ 19.

Thế kỷ 19: Những phát hiện của Falret

Nhà tâm thần học người Pháp Jean-Pierre Falret đã xuất bản một bài báo vào năm 1851 mô tả cái mà ông gọi là tuần hoàn cuốn sách la la, nghĩa là sự điên rồ tròn. Bài báo chi tiết những người chuyển qua trầm cảm nặng và hưng phấn hưng cảm, và được coi là chẩn đoán đầu tiên về rối loạn lưỡng cực.


Ngoài việc đưa ra chẩn đoán đầu tiên, Falret còn lưu ý mối liên hệ di truyền trong rối loạn lưỡng cực, một điều mà các chuyên gia y tế vẫn hỗ trợ cho đến ngày nay.

Thế kỷ 20: Phân loại Kraepelin và Leonhard

Lịch sử của chứng rối loạn lưỡng cực đã thay đổi với Emil Kraepelin, một bác sĩ tâm thần người Đức, người đã tách ra khỏi lý thuyết Sigmund Freud, rằng xã hội và sự đàn áp những ham muốn đóng một vai trò lớn trong bệnh tâm thần.

Kraepelin công nhận nguyên nhân sinh học của bệnh tâm thần. Anh ấy tin rằng mình là người đầu tiên nghiên cứu nghiêm trọng về bệnh tâm thần.

KraepelinSự điên cuồng trầm cảm và hoang tưởng vào năm 1921, đã nêu chi tiết về sự khác biệt giữa trầm cảm và trầm cảm, hiện được gọi là tâm thần phân liệt. Phân loại rối loạn tâm thần của ông vẫn là cơ sở được sử dụng bởi các hiệp hội chuyên nghiệp ngày nay.

Một hệ thống phân loại chuyên nghiệp cho các rối loạn tâm thần có nguồn gốc sớm nhất vào những năm 1950 từ bác sĩ tâm thần người Đức Karl Leonhard và những người khác. Hệ thống này rất quan trọng để hiểu rõ hơn và điều trị các tình trạng này.

Cuối thế kỷ 20: APA và DSM

Thuật ngữ Nip lưỡng cực có nghĩa là hai cực của người Hồi giáo, biểu thị sự đối lập cực của hưng cảm và trầm cảm. Thuật ngữ này xuất hiện lần đầu tiên trong Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ (APA) về Rối loạn Tâm thần (DSM) trong lần sửa đổi thứ ba vào năm 1980.

Đó là bản sửa đổi đã bỏ đi thuật ngữ hưng cảm để tránh gọi bệnh nhân điên cuồng. Bây giờ trong phiên bản thứ năm (DSM-5), DSM được coi là hướng dẫn hàng đầu cho các chuyên gia sức khỏe tâm thần. Nó chứa các hướng dẫn chẩn đoán và điều trị giúp các bác sĩ quản lý chăm sóc nhiều người bị rối loạn lưỡng cực ngày nay.

Khái niệm về phổ đã được phát triển để nhắm vào những khó khăn cụ thể với các loại thuốc chính xác hơn. Stahl liệt kê bốn rối loạn tâm trạng chính như sau:

  • giai đoạn hưng cảm
  • giai đoạn trầm cảm lớn
  • tập phim hypomanic
  • tập hỗn hợp

Rối loạn lưỡng cực ngày nay

Sự hiểu biết của chúng ta về rối loạn lưỡng cực chắc chắn đã phát triển từ thời cổ đại. Những tiến bộ to lớn trong giáo dục và điều trị đã được thực hiện chỉ trong thế kỷ qua.

Ngày nay, thuốc và liệu pháp giúp nhiều người mắc chứng rối loạn lưỡng cực kiểm soát các triệu chứng và đối phó với tình trạng của họ. Tuy nhiên, có rất nhiều việc phải làm bởi vì nhiều người khác đã nhận được sự đối xử mà họ cần để có cuộc sống chất lượng hơn.

May mắn thay, nghiên cứu đang tiếp tục để giúp chúng tôi hiểu nhiều hơn về tình trạng mãn tính khó hiểu này. Chúng ta càng tìm hiểu về rối loạn lưỡng cực, càng nhiều người có thể nhận được sự chăm sóc mà họ cần.

Chúng Tôi Đề Nghị

Xanthomatosis phun trào

Xanthomatosis phun trào

Xanthomatoi eruptive (EX) gây ra những vết ưng nhỏ vô hại, còn được gọi là xanthoma phun trào, trên da. Những vết ưng này đôi khi được gọi là tổn thương, ẩ...
Tất cả về động vật thân mềm: Cách thức truyền bệnh và cách phòng ngừa

Tất cả về động vật thân mềm: Cách thức truyền bệnh và cách phòng ngừa

Nếu con nhỏ của bạn đột nhiên bị phát ban với những vết ưng nhỏ, không đau, nhỏ với những mảnh vụn nhỏ ở giữa, thì poxviru nhuyễn thể có thể là thủ phạm. Là một bệnh...