Tác Giả: Judy Howell
Ngày Sáng TạO: 6 Tháng BảY 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 1 Tháng BảY 2024
Anonim
OXI-OZON (Hoá L10-HK2)
Băng Hình: OXI-OZON (Hoá L10-HK2)

NộI Dung

Virus là những vi khuẩn nhỏ bé, truyền nhiễm. Chúng ký sinh kỹ thuật vì chúng đòi hỏi một tế bào chủ để sinh sản. Khi xâm nhập, virus sử dụng các thành phần của tế bào chủ để hoàn thành vòng đời của nó.

Một số virus có thể gây ra hoặc góp phần vào sự phát triển của ung thư. Những virus này được gọi là virus gây ung thư.

Không giống như các loại vi-rút khác, chẳng hạn như vi-rút cúm, gây nhiễm trùng cấp tính, vi-rút gây ung thư thường gây nhiễm trùng lâu dài, dai dẳng.

Nó đã ước tính rằng virus chiếm khoảng 20 phần trăm bệnh ung thư. Và có thể còn nhiều loại virus gây ung thư mà các chuyên gia chưa biết đến.

1. Virus Epstein-Barr (EBV)

EBV là một loại virus herpes. Bạn có thể quen thuộc với nó như là nguyên nhân của bệnh bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng, hoặc đơn nhân.

EBV thường lây lan qua nước bọt. Nó có thể được ký hợp đồng thông qua ho, hắt hơi và tiếp xúc gần gũi, chẳng hạn như hôn hoặc chia sẻ vật dụng cá nhân.


Virus cũng có thể lây lan qua máu và tinh dịch. Điều này có nghĩa là bạn có thể gặp nó thông qua quan hệ tình dục, truyền máu hoặc ghép tạng.

Hầu hết các trường hợp nhiễm EBV xảy ra trong thời thơ ấu, mặc dù không phải ai nhiễm virut cũng có triệu chứng. Một khi bạn đã ký hợp đồng với nó, nó sẽ ở lại trong cơ thể bạn đến hết cuộc đời. Nhưng cuối cùng nó nằm im lìm trong cơ thể bạn.

Đột biến xảy ra trong các tế bào do nhiễm EBV có thể góp phần gây ra một số bệnh ung thư hiếm gặp, bao gồm:

  • Ung thư hạch Burkitt
  • ung thư vòm họng
  • Bệnh ung thư gan
  • ung thư dạ dày

2. Virus viêm gan B (HBV)

HBV gây viêm gan virut. Viêm gan là tình trạng viêm gan. Nhiều người bị HBV tiếp tục hồi phục sau khi bị nhiễm trùng cấp tính. Tuy nhiên, một số người bị nhiễm HBV mạn tính (lâu dài).

Virus lây lan qua các chất dịch cơ thể, bao gồm máu, tinh dịch và dịch tiết âm đạo.


Những cách lây nhiễm phổ biến có thể xảy ra bao gồm:

  • có hoạt động tình dục không an toàn với người nhiễm virut
  • dùng chung kim tiêm
  • chia sẻ vật dụng cá nhân có thể chứa máu, bao gồm dao cạo và bàn chải đánh răng
  • truyền virut cho trẻ sơ sinh trong khi sinh, nếu người mẹ bị nhiễm HBV

Bị nhiễm HBV mạn tính dẫn đến viêm gan và tổn thương, là những yếu tố nguy cơ gây ung thư gan.

3. Virus viêm gan C (HCV)

Giống như HBV, HCV cũng gây viêm gan virut.

Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, HCV ít có khả năng gây ra triệu chứng hơn HBV. Nhưng nó có nhiều khả năng gây nhiễm trùng mãn tính. Do đó, một số người có thể bị nhiễm HCV và không biết.

HCV lây lan giống như HBV. Tuy nhiên, hoạt động tình dục dường như là một nguyên nhân ít phổ biến hơn của việc truyền HCV.

Tương tự như HBV, nhiễm HCV mạn tính có thể dẫn đến viêm gan và tổn thương kéo dài, làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư gan.


4. Virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV)

HIV là một retrovirus có thể dẫn đến sự phát triển của AIDS.

HIV lây nhiễm và phá hủy các tế bào trong hệ thống miễn dịch gọi là tế bào T trợ giúp. Khi số lượng các tế bào này suy giảm, hệ thống miễn dịch có thời gian chống nhiễm trùng khó khăn hơn.

HIV lây lan qua các chất dịch cơ thể, bao gồm máu, tinh dịch và dịch âm đạo.

Một số cách truyền có thể xảy ra bao gồm:

  • hoạt động tình dục không được bảo vệ với người nhiễm virut
  • dùng chung kim tiêm
  • chia sẻ vật dụng cá nhân có thể chứa máu, bao gồm dao cạo và bàn chải đánh răng
  • truyền virut cho trẻ sơ sinh trong khi sinh, nếu người mẹ bị nhiễm HIV

Điều quan trọng cần lưu ý là chính HIV không gây ung thư. Hệ thống miễn dịch rất quan trọng trong việc chống lại nhiễm trùng và trong việc tìm kiếm và tấn công các tế bào ung thư.

Sự suy yếu của hệ thống miễn dịch do nhiễm HIV có thể làm tăng nguy cơ phát triển một số loại ung thư, chẳng hạn như Kaposi sarcoma, ung thư hạch không Hodgkin và ung thư cổ tử cung.

5. Virus herpes 8 ở người (HHV-8)

Đôi khi bạn có thể thấy HHV-8 được gọi là virus herpes liên quan đến Kaposi sarcoma (KSHV). Giống như EBV, nó là một loại virus herpes.

Nhiễm trùng HHV-8 là hiếm. Nó đã ước tính rằng ít hơn 10 phần trăm người dân ở Hoa Kỳ bị nhiễm trùng.

HHV-8 chủ yếu lây lan qua nước bọt, mặc dù nó cũng có thể lây truyền qua quan hệ tình dục, cấy ghép nội tạng và truyền máu.

Nó gây ra một loại ung thư hiếm gặp gọi là Kaposi sarcoma. Ung thư này ảnh hưởng đến niêm mạc mạch máu và mạch bạch huyết. HHV-8 có thể được tìm thấy trong các tế bào của các mô này.

Thông thường, hệ thống miễn dịch giữ virus kiểm soát. Kết quả là, hầu hết những người bị nhiễm don don đều có bất kỳ triệu chứng nào hoặc phát triển Kaposi sarcoma.

Tuy nhiên, những người có hệ thống miễn dịch yếu, do HIV chẳng hạn, có nguy cơ mắc bệnh Kaposi sarcoma cao hơn. Điều này là do hệ thống miễn dịch của họ có thể không kiểm soát được HHV-8.

6. Virus papilloma ở người (HPV)

Theo Viện Ung thư Quốc gia, có hơn 200 loại HPV. Một số loại nguyên nhân hình thành mụn cóc trên da, trong khi những loại khác gây ra mụn cóc hình thành trên bộ phận sinh dục, cổ họng hoặc hậu môn. Tuy nhiên, nhiễm trùng HPV có thể không phải lúc nào cũng gây ra các triệu chứng.

Nhiều loại vi-rút lây lan qua tiếp xúc da kề da khi quan hệ tình dục qua đường âm đạo, hậu môn hoặc miệng. Bởi vì vi-rút có thể lây lan qua tiếp xúc với da, sử dụng bao cao su và đập nha khoa có thể hạ thấp, nhưng không ngăn chặn hoàn toàn, cơ hội lây truyền.

Nhiều người bị nhiễm vi-rút cuối cùng tiếp tục loại bỏ nó. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nhiễm trùng HPV lâu dài có thể dẫn đến những thay đổi của tế bào có thể góp phần vào sự phát triển của một số bệnh ung thư, bao gồm cả những bệnh:

  • cổ tử cung
  • âm đạo
  • âm môn
  • dương vật
  • hậu môn
  • hầu họng

Các chủng vi-rút có thể gây ra các bệnh ung thư này được gọi là các vi-rút có nguy cơ cao. Có 14 chủng HPV nguy cơ cao, mặc dù HPV16 và HPV18 chịu trách nhiệm cho hầu hết các bệnh ung thư.

7. Virus lympho T ở người (HTLV)

Giống như HIV, HTLV cũng là một retrovirus. Nó phổ biến hơn bên ngoài Hoa Kỳ trong các khu vực như Nhật Bản, Caribbean, Châu Phi, Trung Đông và Nam Mỹ.

HTLV lây lan qua máu. Phương tiện truyền dẫn tiềm năng bao gồm:

  • hoạt động tình dục không được bảo vệ
  • sinh con
  • cho con bú
  • chia sẻ nhu cầu
  • truyền máu

Là một retrovirus, một phần của vòng đời HTLV liên quan đến việc tích hợp các gen virut vào các tế bào chủ. Điều này có thể ảnh hưởng đến cách tế bào phát triển hoặc thể hiện gen của nó và có khả năng dẫn đến ung thư.

Nhiều người bị nhiễm HTLV không có triệu chứng. Tuy nhiên, nhiễm HTLV có liên quan đến một loại ung thư tích cực gọi là ung thư bạch cầu / ung thư tế bào T cấp tính (ATL). Nó đã ước tính rằng 2 đến 5 phần trăm những người nhiễm vi-rút sẽ phát triển ATL.

8. Polyomavirus tế bào Merkel (MCV)

MCV là một loại virus được phát hiện gần đây. Hầu hết mọi người nhiễm virut trong thời thơ ấu và don Patrick có bất kỳ triệu chứng nào.

Nó không rõ MCV được truyền đi như thế nào, các chuyên gia nghĩ rằng tiếp xúc da kề da là thủ phạm có khả năng, cùng với việc tiếp xúc với các vật thể hoặc bề mặt bị ô nhiễm.

MCV lần đầu tiên được xác định trong các mẫu tế bào từ một loại ung thư gọi là ung thư biểu mô tế bào Merkel, một loại ung thư da hiếm gặp. Bây giờ, người ta tin rằng MCV gây ra gần như tất cả các trường hợp ung thư biểu mô tế bào Merkel.

Làm thế nào để virus gây ung thư?

Virus gây ung thư có thể gây ung thư thông qua các cơ chế khác nhau, có thể bao gồm:

  • sự thay đổi gen của tế bào, do đột biến hoặc làm xáo trộn cách thức gen được biểu hiện
  • Ức chế hoặc phá vỡ hệ thống miễn dịch
  • gây viêm lâu dài

Điều quan trọng cần nhớ là không phải tất cả các bệnh nhiễm virus đều dẫn đến ung thư. Có một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc liệu nhiễm vi rút gây ung thư có tiến triển thành ung thư hay không. Chúng có thể bao gồm những thứ như sức khỏe của hệ thống miễn dịch, di truyền và môi trường của bạn.

Ung thư cũng là một căn bệnh phức tạp với nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của nó. Điều này làm cho nó khó khăn để nói rằng một loại virus trực tiếp gây ung thư. Chính xác hơn khi nghĩ về virus là một yếu tố góp phần vào sự phát triển của bệnh ung thư.

Mẹo phòng ngừa

Có một số điều bạn có thể làm để giảm nguy cơ nhiễm virut gây ung thư.

Vắc-xin

Bạn có thể tránh hai loại virus gây bệnh bằng cách tiêm vắc-xin:

  • Vắc-xin HBV được khuyến nghị cho tất cả trẻ sơ sinh, trẻ em và thanh thiếu niên. Nó cũng khuyến cáo cho những người trưởng thành có nguy cơ nhiễm HBV.Vắc-xin được tiêm trong một loạt các mũi tiêm, vì vậy bạn cần tiêm toàn bộ loạt thuốc để được bảo vệ hoàn toàn.
  • Vắc-xin Gardasil 9 bảo vệ chống lại chín loại vi-rút, trong đó có bảy loại vi-rút có nguy cơ cao. Nó cũng được đưa ra trong một loạt và được khuyến khích cho trẻ em từ 11 hoặc 12 tuổi hoặc người lớn đến 26 tuổi.

Lời khuyên khác

Ngoài việc tiêm vắc-xin, bạn có thể làm một số điều khác để giúp ngăn ngừa nhiễm vi-rút, chẳng hạn như:

  • rửa tay thường xuyên, đặc biệt là trước khi ăn, sau khi sử dụng phòng tắm và trước khi chạm vào mặt, miệng hoặc mũi của bạn
  • không dùng chung vật dụng cá nhân có chứa nước bọt hoặc máu, kể cả kính uống, bàn chải đánh răng và dao cạo râu
  • sử dụng hàng rào bảo vệ, chẳng hạn như bao cao su hoặc đập nha khoa, trong hoạt động tình dục
  • thường xuyên được kiểm tra vi-rút nếu bạn có âm đạo
  • thường xuyên được kiểm tra HIV và HCV
  • không dùng chung kim tiêm
  • thận trọng khi xăm hoặc xỏ khuyên, đảm bảo chỉ sử dụng kim mới, vô trùng

Điểm mấu chốt

Một số virus, được gọi là virus gây ung thư, có liên quan đến ung thư. Những virus này có thể gây đột biến, ảnh hưởng đến biểu hiện gen hoặc dẫn đến viêm mãn tính.

Hãy nhớ rằng việc bị nhiễm vi-rút gây ung thư không có nghĩa là bạn sẽ bị ung thư. Điều đó đơn giản có nghĩa là bạn có thể có rủi ro cao hơn so với người mà không bao giờ bị nhiễm trùng.

Chúng Tôi Khuyên BạN Nên Xem

Loạn dưỡng tuyến phụ

Loạn dưỡng tuyến phụ

Adrenoleukody trophy mô tả một ố rối loạn liên quan chặt chẽ làm gián đoạn ự phân hủy của một ố chất béo. Những rối loạn này thường được di truyền (di truyền) trong ...
Tolterodine

Tolterodine

Tolterodine được ử dụng để điều trị bàng quang hoạt động quá mức (một tình trạng trong đó các cơ bàng quang co bóp không kiểm oát được và gây ra ...