Làm thế nào để liệu pháp miễn dịch làm việc để điều trị khối u ác tính?
NộI Dung
- Chất ức chế điểm kiểm tra
- Ipilimumab (Yervoy)
- Pembrolizumab (Keytruda)
- Nivolumab (Opdivo)
- Tác dụng phụ tiềm tàng
- Liệu pháp Cytokine
- Interferon alfa-2b (Intron A)
- Pegylated interferon alfa-2b (Sylatron)
- Interleukin-2 (aldesleukin, Proleukin)
- Tác dụng phụ tiềm tàng
- Điều trị virus oncolytic
- Tác dụng phụ tiềm tàng
- Mang đi
Liệu pháp miễn dịch là một loại điều trị giúp hệ thống miễn dịch của bạn hoạt động hiệu quả hơn chống lại ung thư. Nó đôi khi được gọi là liệu pháp sinh học.
Điều trị bằng liệu pháp miễn dịch có thể giúp:
- ngăn chặn hoặc làm chậm sự phát triển và lan rộng của các tế bào ung thư da melanoma
- thu nhỏ khối u ác tính đã phát triển ở các bộ phận khác nhau của cơ thể bạn
- làm giảm khả năng khối u ác tính sẽ quay trở lại nếu nó được phẫu thuật cắt bỏ
Đọc để tìm hiểu về các loại liệu pháp miễn dịch khác nhau có thể được sử dụng để điều trị ung thư da khối u ác tính. Sau đó nói chuyện với bác sĩ của bạn để tìm hiểu thêm về các lựa chọn điều trị của bạn.
Chất ức chế điểm kiểm tra
Tế bào T là một loại tế bào bạch cầu trong hệ thống miễn dịch của bạn giúp chống lại ung thư.
Để ngăn chặn các tế bào T tấn công các tế bào khỏe mạnh trong cơ thể, hệ thống miễn dịch của bạn sử dụng một số protein nhất định được gọi là điểm kiểm tra. Đôi khi các tế bào ung thư da melanoma sử dụng protein điểm kiểm tra để ngăn chặn các tế bào T giết chết chúng.
Chất ức chế điểm kiểm tra là một loại thuốc ngăn chặn protein điểm kiểm tra. Chúng gắn vào các kháng nguyên ở bên ngoài các tế bào ung thư, cho phép các tế bào T tấn công và tiêu diệt các tế bào đó.
Thuốc ức chế điểm kiểm tra có thể được chỉ định để điều trị khối u ác tính giai đoạn 3 hoặc giai đoạn 4 có thể loại bỏ bằng phẫu thuật. Hoặc, họ cũng có thể được chỉ định kết hợp với phẫu thuật.
Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã phê duyệt ba loại chất ức chế trạm kiểm soát để điều trị khối u ác tính: ipilimumab (Yervoy), pembrolizumab (Keytruda) và nivolumab (Opdivo).
Ipilimumab (Yervoy)
Yervoy chặn một loại protein điểm kiểm tra được gọi là CTLA-4.
Nếu bác sĩ kê toa Yervoy, bạn sẽ nhận được bốn liều thuốc thông qua truyền tĩnh mạch (IV). Bạn sẽ nhận được một liều mỗi 3 tuần.
Pembrolizumab (Keytruda)
Keytruda nhắm đến một loại protein điểm kiểm tra gọi là PD-1.
Keytruda được quản lý bằng truyền IV, thường cứ sau 3 tuần.
Nivolumab (Opdivo)
Giống như Keytruda, Opdivo nhắm mục tiêu PD-1.
Nếu bạn được điều trị bằng Opdivo, bạn sẽ nhận được thuốc bằng cách truyền IV mỗi 2 đến 3 tuần một lần. Bác sĩ của bạn có thể kê toa Opdivo một mình hoặc kết hợp với Yervoy.
Tác dụng phụ tiềm tàng
Điều trị bằng thuốc ức chế điểm kiểm tra có thể gây ra tác dụng phụ, như:
- mệt mỏi
- bệnh tiêu chảy
- đau đầu
- phát ban da
- ho
- khó thở
- vấn đề về gan, có thể gây ra da và mắt vàng
- vấn đề về phổi, có thể gây ho hoặc khó thở
- vấn đề về tuyến giáp, có thể gây ra những thay đổi về trọng lượng cơ thể, nhiệt độ cơ thể, huyết áp hoặc nhịp tim
Trong một số ít trường hợp, điều trị bằng thuốc ức chế điểm kiểm tra gây ra phản ứng miễn dịch đe dọa tính mạng. Hãy cho bác sĩ của bạn biết ngay nếu bạn nghĩ rằng có thể gặp phải tác dụng phụ.
Liệu pháp Cytokine
Cytokine là một loại protein mà cơ thể bạn sản xuất tự nhiên. Các nhà khoa học cũng có thể tạo ra các cytokine nhân tạo trong phòng thí nghiệm.
Cytokine hoạt động như các sứ giả hóa học cho phép các tế bào miễn dịch giao tiếp với nhau. Điều này giúp kiểm soát cách hệ thống miễn dịch của bạn phản ứng với các bệnh.
Điều trị bằng các cytokine nhân tạo có thể giúp tăng cường hệ miễn dịch của bạn và kích hoạt phản ứng mạnh hơn chống lại các tế bào ung thư.
Ba loại cytokine nhân tạo đã được phê duyệt để điều trị ung thư da melanoma: interferon alfa-2b (Intron A), pegylated interferon alfa-2b (Sylatron) và interleukin-2 (aldesleukin, Proleukin).
Interferon alfa-2b (Intron A)
Intron A được sử dụng để điều trị ung thư da hắc tố giai đoạn đầu.
Nó cũng được sử dụng để điều trị một số trường hợp u ác tính tiên tiến, khi ung thư chỉ lan sang các khu vực lân cận. Điều này được gọi là khối u ác tính tiên tiến tại địa phương.
Intron A thường được dùng sau phẫu thuật, như một phương pháp điều trị bổ trợ. Nó có thể giúp giảm khả năng ung thư sẽ quay trở lại sau khi được phẫu thuật cắt bỏ.
Nếu bác sĩ kê toa Intron A, bạn có thể sẽ được tiêm thuốc liều cao vài ngày mỗi tuần trong một năm.
Pegylated interferon alfa-2b (Sylatron)
Giống như Intron A, Sylatron thường được sử dụng như một phương pháp điều trị bổ trợ sau phẫu thuật. Nó có thể giúp ngăn chặn ung thư trở lại.
Sylatron được tiêm dưới da. Nếu bạn nhận được thuốc này, bác sĩ có thể sẽ kê toa liều khởi đầu là 6 mg mỗi tuần trong 8 tuần. Sau khi bạn nhận được những liều ban đầu, bác sĩ có thể kê đơn liều nhỏ hơn 3 mg mỗi tuần trong tối đa 5 năm.
Interleukin-2 (aldesleukin, Proleukin)
Bác sĩ có thể kê toa Proleukin nếu bạn bị ung thư da khối u ác tính giai đoạn 3 hoặc 4 đã lan sang các bộ phận khác trên cơ thể.
Đôi khi, thuốc này cũng được sử dụng khi khối u ác tính đã trở lại sau khi điều trị và có quá nhiều khối u trên da để loại bỏ chúng bằng phẫu thuật.
Điều trị bằng Proleukin có thể giúp thu nhỏ và hạn chế sự phát triển của khối u ác tính.
Nếu bác sĩ kê toa Proleukin, một chuyên gia chăm sóc sức khỏe sẽ tiêm trực tiếp vào khối u. Bạn sẽ cần tiêm nhiều lần, hai đến ba lần mỗi ngày trong 1 đến 2 tuần.
Tác dụng phụ tiềm tàng
Điều trị bằng liệu pháp cytokine có thể gây ra tác dụng phụ, như:
- sốt
- ớn lạnh
- đau cơ
- đau khớp
- mệt mỏi
- buồn nôn
- nôn
- bệnh tiêu chảy
- ăn mất ngon
- ngứa da
- da đỏ
- phát ban
- rụng tóc
- chất lỏng xây dựng
- thay đổi tâm trạng
Những loại thuốc này cũng có thể làm cho số lượng tế bào máu của bạn giảm. Điều này có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng của bạn.
Nếu bạn nghĩ rằng bạn có thể đã phát triển các tác dụng phụ, hãy cho bác sĩ của bạn biết ngay lập tức.
Điều trị virus oncolytic
Virus oncolytic là những virus đã được biến đổi gen để tiêu diệt tế bào ung thư, mà không gây hại cho các tế bào khỏe mạnh.
Khi một virus oncolytic được tiêm vào khối u ung thư da melanoma, nó sẽ xâm nhập vào các tế bào ung thư và bắt đầu nhân lên. Điều này khiến các tế bào ung thư vỡ ra và chết.
Khi các tế bào ung thư bị nhiễm bệnh chết đi, chúng giải phóng các kháng nguyên. Điều đó kích hoạt hệ thống miễn dịch của bạn nhắm mục tiêu các tế bào ung thư khác trong cơ thể có cùng kháng nguyên.
Có một loại virus oncolytic được sử dụng để điều trị khối u ác tính. Nó được gọi là Talimogene laherparepvec (Imlygic), hoặc T-VEC.
Tác dụng phụ tiềm tàng
Điều trị bằng T-VEC có thể gây ra tác dụng phụ, như:
- mệt mỏi
- sốt
- ớn lạnh
- buồn nôn
Nếu bạn nghĩ rằng bạn có thể gặp phải tác dụng phụ, liên hệ với bác sĩ của bạn.
Mang đi
Nếu bạn bị ung thư da khối u ác tính, bác sĩ có thể kê toa một hoặc nhiều loại liệu pháp miễn dịch để giúp cải thiện hệ thống miễn dịch của bạn Khả năng tìm và tiêu diệt tế bào ung thư.
Liệu pháp miễn dịch thường được kết hợp với các phương pháp điều trị khác cho khối u ác tính, chẳng hạn như phẫu thuật, xạ trị hoặc thuốc hóa trị. Nói chuyện với bác sĩ của bạn để tìm hiểu thêm về các lựa chọn điều trị của bạn.