Tác Giả: Morris Wright
Ngày Sáng TạO: 23 Tháng Tư 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 1 Tháng BảY 2024
Anonim
Nghiên cứu trong tương lai và Thử nghiệm lâm sàng cho MS Tiến triển Sơ cấp - Chăm Sóc SứC KhỏE
Nghiên cứu trong tương lai và Thử nghiệm lâm sàng cho MS Tiến triển Sơ cấp - Chăm Sóc SứC KhỏE

NộI Dung

Tổng quat

Đa xơ cứng (MS) là một tình trạng tự miễn dịch mãn tính. Nó xảy ra khi cơ thể bắt đầu tấn công các bộ phận của hệ thần kinh trung ương (CNS).

Hầu hết các loại thuốc và phương pháp điều trị hiện nay đều tập trung vào MS tái phát chứ không tập trung vào MS tiến triển nguyên phát (PPMS). Tuy nhiên, các thử nghiệm lâm sàng liên tục được tổ chức để giúp hiểu rõ hơn về PPMS và tìm ra các phương pháp điều trị mới, hiệu quả.

Các loại MS

Bốn loại MS chính là:

  • hội chứng cô lập lâm sàng (CIS)
  • MS chuyển tiếp tái phát (RRMS)
  • MS tiến bộ sơ cấp (PPMS)
  • MS tiến bộ thứ cấp (SPMS)

Các loại MS này được tạo ra để giúp các nhà nghiên cứu y tế phân loại những người tham gia thử nghiệm lâm sàng với sự phát triển bệnh tương tự. Các nhóm này cho phép các nhà nghiên cứu đánh giá hiệu quả và độ an toàn của một số phương pháp điều trị mà không cần sử dụng một số lượng lớn người tham gia.

Hiểu MS tiến bộ sơ cấp

Chỉ 15 phần trăm hoặc hơn tất cả những người được chẩn đoán mắc MS có PPMS. PPMS ảnh hưởng đến nam giới và phụ nữ như nhau, trong khi RRMS phổ biến hơn ở phụ nữ so với nam giới.


Hầu hết các loại MS xảy ra khi hệ thống miễn dịch tấn công vỏ myelin. Vỏ myelin là một chất béo, chất bảo vệ bao quanh các dây thần kinh trong tủy sống và não. Khi chất này bị tấn công sẽ gây ra tình trạng viêm nhiễm.

PPMS dẫn đến tổn thương dây thần kinh và mô sẹo trên các khu vực bị tổn thương. Bệnh làm rối loạn quá trình giao tiếp thần kinh, gây ra các triệu chứng và tiến triển bệnh khó lường.

Không giống như những người bị RRMS, những người bị PPMS trải nghiệm chức năng ngày càng tồi tệ hơn mà không tái phát hoặc thuyên giảm sớm. Ngoài sự gia tăng dần dần tình trạng khuyết tật, những người bị PPMS cũng có thể gặp các triệu chứng sau:

  • cảm giác tê hoặc ngứa ran
  • mệt mỏi
  • khó khăn khi đi bộ hoặc phối hợp các cử động
  • các vấn đề với tầm nhìn, chẳng hạn như nhìn đôi
  • vấn đề với trí nhớ và học tập
  • co thắt cơ hoặc cứng cơ
  • thay đổi tâm trạng

PPMS điều trị

Điều trị PPMS khó hơn điều trị RRMS và nó bao gồm việc sử dụng các liệu pháp ức chế miễn dịch. Những liệu pháp này chỉ giúp đỡ tạm thời. Chúng chỉ có thể được sử dụng một cách an toàn và liên tục trong vài tháng đến một năm tại một thời điểm.


Mặc dù Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) đã phê duyệt nhiều loại thuốc điều trị RRMS, nhưng không phải loại thuốc nào cũng phù hợp với các dạng MS đang tiến triển. Thuốc RRMS, còn được gọi là thuốc điều chỉnh bệnh (DMD), được dùng liên tục và thường có các tác dụng phụ không thể dung nạp được.

Các tổn thương khử men tích cực và tổn thương thần kinh cũng có thể được tìm thấy ở những người bị PPMS. Các tổn thương có khả năng viêm nhiễm cao và có thể gây tổn thương vỏ myelin. Hiện vẫn chưa rõ liệu thuốc giảm viêm có thể làm chậm các dạng tiến triển của MS hay không.

Ocrevus (Ocrelizumab)

FDA đã phê duyệt Ocrevus (ocrelizumab) như một phương pháp điều trị cho cả RRMS và PPMS vào tháng 3 năm 2017. Cho đến nay, đây là loại thuốc duy nhất được FDA chấp thuận để điều trị PPMS.

Các thử nghiệm lâm sàng chỉ ra rằng nó có thể làm chậm sự tiến triển của các triệu chứng trong PPMS khoảng 25% khi so sánh với giả dược.

Ocrevus cũng được chấp thuận để điều trị RRMS và PPMS “sớm” ở Anh. Nó chưa được phê duyệt ở các khu vực khác của Vương quốc Anh.


Viện Y tế Quốc gia xuất sắc (NICE) ban đầu từ chối Ocrevus với lý do chi phí cung cấp cho nó lớn hơn lợi ích của nó. Tuy nhiên, NICE, Dịch vụ Y tế Quốc gia (NHS) và nhà sản xuất thuốc (Roche) cuối cùng đã thương lượng lại giá của nó.

Các thử nghiệm lâm sàng PPMS đang diễn ra

Ưu tiên chính của các nhà nghiên cứu là tìm hiểu thêm về các dạng MS tiến bộ. Các loại thuốc mới phải trải qua quá trình kiểm tra lâm sàng nghiêm ngặt trước khi FDA phê duyệt.

Hầu hết các thử nghiệm lâm sàng kéo dài từ 2 đến 3 năm. Tuy nhiên, do nghiên cứu còn hạn chế nên cần có các thử nghiệm dài hơn đối với PPMS. Nhiều thử nghiệm RRMS đang được tiến hành vì việc đánh giá hiệu quả của thuốc đối với những lần tái phát trở nên dễ dàng hơn.

Xem trang web của Hiệp hội Đa xơ cứng Quốc gia để biết danh sách đầy đủ các thử nghiệm lâm sàng ở Hoa Kỳ.

Các thử nghiệm chọn lọc sau đây hiện đang được tiến hành.

Liệu pháp tế bào gốc NurOwn

Brainstorm Cell Therapeutics đang thực hiện thử nghiệm lâm sàng giai đoạn II để điều tra tính an toàn và hiệu quả của các tế bào NurOwn trong điều trị MS tiến triển. Phương pháp điều trị này sử dụng các tế bào gốc lấy từ những người tham gia đã được kích thích để tạo ra các yếu tố tăng trưởng cụ thể.

Vào tháng 11 năm 2019, Hiệp hội Đa xơ cứng Quốc gia đã trao cho Liệu pháp Tế bào Não một khoản tài trợ nghiên cứu trị giá 495.330 đô la để hỗ trợ điều trị này.

Phiên tòa dự kiến ​​kết thúc vào tháng 9 năm 2020.

Biotin

MedDay Pharmaceuticals SA hiện đang thực hiện thử nghiệm lâm sàng giai đoạn III về hiệu quả của viên nang biotin liều cao trong điều trị những người bị MS đang tiến triển. Thử nghiệm cũng nhằm đặc biệt tập trung vào những cá nhân có vấn đề về dáng đi.

Biotin là một loại vitamin có liên quan đến việc ảnh hưởng đến các yếu tố tăng trưởng tế bào cũng như sản xuất myelin. Viên nang biotin đang được so sánh với giả dược.

Thử nghiệm không còn tuyển dụng những người tham gia mới nhưng dự kiến ​​sẽ kết thúc cho đến tháng 6 năm 2023.

Masitinib

AB Science đang thực hiện thử nghiệm lâm sàng giai đoạn III đối với thuốc masitinib. Masitinib là một loại thuốc ngăn chặn phản ứng viêm. Điều này dẫn đến phản ứng miễn dịch thấp hơn và mức độ viêm thấp hơn.

Thử nghiệm đang đánh giá tính an toàn và hiệu quả của masitinib khi so sánh với giả dược. Hai phác đồ điều trị masitinib đang được so sánh với giả dược: Phác đồ đầu tiên sử dụng cùng một liều lượng trong suốt, trong khi phác đồ kia liên quan đến việc tăng liều sau 3 tháng.

Thử nghiệm không còn tuyển người tham gia mới. Dự kiến ​​sẽ kết thúc vào tháng 9 năm 2020.

Đã hoàn thành thử nghiệm lâm sàng

Các thử nghiệm sau đã được hoàn thành gần đây. Đối với hầu hết chúng, kết quả ban đầu hoặc cuối cùng đã được công bố.

Ibudilast

MediciNova đã hoàn thành thử nghiệm lâm sàng giai đoạn II đối với thuốc ibudilast. Mục đích của nó là xác định độ an toàn và hoạt động của thuốc ở những người bị MS đang tiến triển. Trong nghiên cứu này, ibudilast được so sánh với giả dược.

Kết quả nghiên cứu ban đầu chỉ ra rằng ibudilast làm chậm sự tiến triển của chứng teo não khi so sánh với giả dược trong khoảng thời gian 96 tuần. Các tác dụng phụ phổ biến nhất được báo cáo là các triệu chứng tiêu hóa.

Mặc dù kết quả đầy hứa hẹn nhưng vẫn cần các thử nghiệm bổ sung để xem liệu kết quả của thử nghiệm này có thể được tái tạo hay không và ibudilast có thể so sánh như thế nào với Ocrevus và các loại thuốc khác.

Idebenone

Viện Quốc gia về Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm (NIAID) gần đây đã hoàn thành thử nghiệm lâm sàng giai đoạn I / II để đánh giá tác dụng của Idebenone đối với những người bị PPMS. Idebenone là một phiên bản tổng hợp của coenzyme Q10. Nó được cho là có thể hạn chế thiệt hại cho hệ thần kinh.

Trong suốt 2 năm cuối cùng của cuộc thử nghiệm kéo dài 3 năm này, những người tham gia đã sử dụng thuốc hoặc giả dược. Kết quả sơ bộ chỉ ra rằng, trong quá trình nghiên cứu, Idebenone không mang lại lợi ích gì so với giả dược.

Laquinimod

Teva Pharmaceutical Industries đã tài trợ cho một nghiên cứu giai đoạn II trong nỗ lực thiết lập một bằng chứng về khái niệm điều trị PPMS với laquinimod.

Người ta chưa hiểu đầy đủ về cách hoạt động của laquinimod. Nó được cho là có thể thay đổi hành vi của các tế bào miễn dịch, do đó ngăn ngừa tổn thương hệ thần kinh.

Kết quả thử nghiệm đáng thất vọng đã khiến nhà sản xuất của nó, Active Biotech, ngừng phát triển laquinimod như một loại thuốc cho bệnh MS.

Fampridine

Vào năm 2018, University College Dublin đã hoàn thành một thử nghiệm giai đoạn IV để kiểm tra tác dụng của fampridine ở những người bị rối loạn chức năng chi trên và PPMS hoặc SPMS. Fampridine còn được gọi là dalfampridine.

Mặc dù thử nghiệm này đã hoàn thành, nhưng không có kết quả nào được báo cáo.

Tuy nhiên, theo một nghiên cứu năm 2019 của Ý, loại thuốc này có thể cải thiện tốc độ xử lý thông tin ở những người bị MS. Một đánh giá và phân tích tổng hợp năm 2019 kết luận rằng có bằng chứng chắc chắn rằng thuốc đã cải thiện khả năng đi bộ quãng đường ngắn cũng như khả năng đi bộ của những người bị MS.

Nghiên cứu PPMS

Hiệp hội Đa xơ cứng Quốc gia đang thúc đẩy nghiên cứu liên tục về các loại MS tiến triển. Mục đích là tạo ra các phương pháp điều trị thành công.

Một số nghiên cứu đã tập trung vào sự khác biệt giữa những người có PPMS và những người khỏe mạnh. Một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng các tế bào gốc trong não của những người bị PPMS trông già hơn các tế bào gốc tương tự ở những người khỏe mạnh ở cùng độ tuổi.

Ngoài ra, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng khi tế bào oligodendrocytes, tế bào sản xuất myelin, tiếp xúc với các tế bào gốc này, chúng biểu hiện các protein khác với ở những người khỏe mạnh. Khi biểu hiện protein này bị chặn, các tế bào oligodendro hoạt động bình thường. Điều này có thể giúp giải thích tại sao myelin bị tổn thương ở những người mắc PPMS.

Một nghiên cứu khác cho thấy những người mắc chứng MS tiến triển có lượng phân tử được gọi là axit mật thấp hơn. Axit mật có nhiều chức năng, đặc biệt là trong tiêu hóa. Chúng cũng có tác dụng chống viêm trên một số tế bào.

Các thụ thể đối với axit mật cũng được tìm thấy trên các tế bào trong mô MS. Người ta cho rằng việc bổ sung axit mật có thể có lợi cho những người bị MS đang tiến triển. Trên thực tế, một thử nghiệm lâm sàng để kiểm tra chính xác điều này hiện đang được tiến hành.

Mang đi

Các bệnh viện, trường đại học và các tổ chức khác trên khắp Hoa Kỳ đang liên tục làm việc để tìm hiểu thêm về PPMS và MS nói chung.

Cho đến nay chỉ có một loại thuốc, Ocrevus, được FDA chấp thuận để điều trị PPMS. Mặc dù Ocrevus làm chậm tiến trình của PPMS, nhưng nó không ngăn được tiến trình đó.

Một số loại thuốc, chẳng hạn như ibudilast, có vẻ hứa hẹn dựa trên những thử nghiệm ban đầu. Các loại thuốc khác, chẳng hạn như Idebenone và laquinimod, đã không được chứng minh là có hiệu quả.

Các thử nghiệm bổ sung là cần thiết để xác định các liệu pháp bổ sung cho PPMS. Hỏi nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn về các thử nghiệm lâm sàng và nghiên cứu mới nhất có thể mang lại lợi ích cho bạn.

Bài ViếT MớI

Nhọt kẹo cao su

Nhọt kẹo cao su

Áp xe phát triển trên nướu thường được gọi là nhọt nướu. Chúng xuất hiện như những vết ưng trên nướu.Nguyên nhân chính của nhọt nướu là do vi khuẩn - ...
12 cách để điều trị chứng lo âu xã hội

12 cách để điều trị chứng lo âu xã hội

Một ố người thích ở trong công ty của những người khác và có thể chờ đợi để nhận được lời mời tiếp theo của họ đến một ự kiện. Nó là một câu chuyện khác nh...