Bệnh Lyme là gì, các triệu chứng chính và cách điều trị
NộI Dung
- Các triệu chứng chính
- Nguyên nhân gây ra bệnh Lyme
- Cách thức lây truyền xảy ra
- Cách xác nhận chẩn đoán
- Cách điều trị được thực hiện
- 1. Sử dụng thuốc kháng sinh
- 2. Các buổi vật lý trị liệu
Bệnh Lyme, còn được gọi là bệnh ve, là một bệnh do vết cắn của một con ve bị nhiễm vi khuẩn Borrelia burgdorferi, dẫn đến sự xuất hiện của một đốm đỏ hình tròn trên da, tăng dần theo thời gian.
Trong hầu hết các trường hợp, người bệnh không nhận thấy rằng bọ chét đã đốt da, chỉ nhận thấy khi các triệu chứng bắt đầu xuất hiện. Ngay khi nhận thấy các triệu chứng đầu tiên, điều quan trọng là phải tham khảo ý kiến bác sĩ nhiễm trùng hoặc bác sĩ đa khoa để có thể thực hiện các xét nghiệm xác định nhiễm trùng và do đó, có thể bắt đầu điều trị thích hợp nhất, thường được thực hiện bằng cách sử dụng kháng sinh. .
Nếu điều trị không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng cách, các biến chứng có thể phát sinh, chẳng hạn như viêm khớp, viêm màng não hoặc các vấn đề về tim, làm giảm chất lượng cuộc sống.
Vết tròn màu đỏCác triệu chứng chính
Các triệu chứng của bệnh Lyme đang tiến triển và các triệu chứng đầu tiên, còn được gọi là các triệu chứng ban đầu, thường xuất hiện từ 3 đến 30 ngày sau khi bị bọ chét nhiễm bệnh cắn, những triệu chứng chính là:
- Tổn thương da và mẩn đỏ tại chỗ bị cắn, tương tự như mắt bò, từ 2 đến 30 cm, kích thước tăng dần theo thời gian;
- Sự mệt mỏi;
- Đau cơ, khớp và đau đầu;
- Sốt và ớn lạnh;
- Cổ cứng.
Khi bạn có bất kỳ triệu chứng nào trong số này, đặc biệt là kèm theo một đốm và mẩn đỏ trên da, bạn nên đến gặp bác sĩ đa khoa hoặc bệnh truyền nhiễm ngay lập tức để xác định chẩn đoán và bắt đầu điều trị bằng kháng sinh.
Tuy nhiên, nếu không bắt đầu điều trị kịp thời, các triệu chứng có thể xuất hiện muộn hơn và thường liên quan đến các biến chứng, chẳng hạn như:
- Viêm khớp, đặc biệt là ở đầu gối, nơi khớp bị đau và sưng tấy;
- Các triệu chứng thần kinh, chẳng hạn như tê và đau ở bàn chân và bàn tay, tê liệt cơ mặt, suy giảm trí nhớ và khó tập trung;
- Viêm màng não, đặc trưng bởi đau đầu dữ dội, cứng cổ và tăng nhạy cảm với ánh sáng;
- Các vấn đề về tim, được chú ý do đánh trống ngực, khó thở và ngất xỉu.
Khi có những biểu hiện trên, nên đến bệnh viện để được điều trị bệnh, tránh để bệnh nặng hơn biến chứng nguy hiểm đến tính mạng.
Nguyên nhân gây ra bệnh Lyme
Bệnh Lyme gây ra chủ yếu do vết cắn của bọ ve bị nhiễm vi khuẩn Borrelia burgdorferi và hút máu người, chủ yếu là bọ ve của các loài Ixodes ricinus. Để những loài ve này có thể truyền bệnh cho người thì cần phải bám vào người ít nhất 24 giờ.
Vi khuẩn này có thể có trong máu của một số động vật, chẳng hạn như hươu và chuột, và khi bọ chét ký sinh vào những động vật này, nó sẽ thu được vi khuẩn và có thể truyền sang động vật và người khác.
Cách thức lây truyền xảy ra
Bệnh lyme do vi khuẩn gây ra Borrelia burgdorferi Ví dụ, có thể có trong máu của một số động vật như chuột, nai hoặc chim đen. Khi bọ chét cắn một trong những con vật này, nó cũng bị nhiễm vi khuẩn và sau đó có thể truyền vi khuẩn đó sang người.
Bọ ve rất nhỏ nên người bệnh có thể không biết mình đã bị cắn, vì vậy nếu có nghi ngờ, những vị trí tốt nhất để tìm bọ ve trên cơ thể bao gồm: sau tai, trên da đầu, rốn, nách, bẹn hoặc trên ví dụ như mặt sau của đầu gối. Nguy cơ bị nhiễm bệnh cao hơn khi bọ chét có thể ở trên da hơn 24 giờ.
Những người làm việc trong các khu vực rừng như đi bộ đường dài, cắm trại, nông dân, công nhân rừng hoặc binh lính có nhiều nguy cơ bị bọ ve cắn và mắc bệnh hơn. Xem những bệnh khác có thể gây ra bởi bọ ve.
Cách xác nhận chẩn đoán
Bệnh Lyme thường được chẩn đoán thông qua các xét nghiệm máu có thể được thực hiện từ 3 đến 6 tuần sau khi người đó bị bọ ve cắn, đó là thời gian để nhiễm trùng phát triển và xuất hiện trên các bài kiểm tra. Do đó, các xét nghiệm có thể được sử dụng để phát hiện bệnh Lyme bao gồm:
- Kỳ thi ELISA: nó là một loại xét nghiệm huyết thanh học được thực hiện với mục tiêu xác định các kháng thể cụ thể được tạo ra bởi hệ thống miễn dịch chống lại vi khuẩn và do đó, xác minh nồng độ của vi khuẩn này trong cơ thể;
- Kiểm tra Phong cách phương Tây: là một loại xét nghiệm trong đó một mẫu máu nhỏ được sử dụng để nghiên cứu các protein mà các kháng thể sử dụng để chống lại vi khuẩn gây bệnh.
Bệnh Lyme được xác nhận khi kết quả của cả hai xét nghiệm đều dương tính. Ngoài ra, có thể yêu cầu một công thức máu đầy đủ, cũng như sinh thiết da, được gọi là Warthin Starry, mặc dù không đặc hiệu, nhưng có thể hữu ích trong chẩn đoán do các phát hiện mô bệnh học.
Cách điều trị được thực hiện
Việc điều trị bệnh Lyme được thực hiện thông qua việc sử dụng thuốc kháng sinh như Doxycycline chẳng hạn, và điều trị càng sớm thì khả năng hồi phục càng nhanh, tránh biến chứng.
1. Sử dụng thuốc kháng sinh
Điều trị bệnh Lyme luôn phải được chỉ định bởi bác sĩ và thông thường, nhiễm trùng được điều trị bằng thuốc kháng sinh, chẳng hạn như Doxycycline 100 mg, phải uống hai lần một ngày trong 2 đến 4 tuần hoặc theo lời khuyên của bác sĩ. Trong trường hợp trẻ em và phụ nữ có thai, việc sử dụng Amoxicillin hoặc Azithromycin được chỉ định trong cùng một khoảng thời gian.
Thông thường, kháng sinh được dùng bằng đường uống, tuy nhiên, trong những trường hợp nặng hơn cần nhập viện để thuốc được truyền trực tiếp vào tĩnh mạch và tránh được các biến chứng. Ngoài ra, phụ nữ đang cho con bú có thể được điều trị bằng kháng sinh mà em bé không bị nguy hiểm.
2. Các buổi vật lý trị liệu
Trong những tình huống nghiêm trọng, bệnh Lyme có thể gây viêm khớp, đặc biệt là ở đầu gối, dẫn đến đau và sưng khớp. Trong những trường hợp này, người bệnh có thể cần thực hiện các buổi vật lý trị liệu để lấy lại khả năng vận động và có thể thực hiện các hoạt động hàng ngày mà không bị đau. Các buổi trị liệu được thực hiện bởi các nhà vật lý trị liệu và bao gồm các bài tập vận động và kéo giãn hoặc sử dụng thiết bị tùy theo mức độ nghiêm trọng của trường hợp.
Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể đề nghị sử dụng thuốc chống viêm, chẳng hạn như Ibuprofen, để giảm tình trạng viêm khớp.