Ung thư vú theo số lượng: Tỷ lệ sống theo giai đoạn, tuổi tác và quốc gia
NộI Dung
- Tỷ lệ sống sót theo giai đoạn ung thư vú
- Tỷ lệ sống theo tuổi
- Tỷ lệ sống theo chủng tộc
- Ung thư vú trên toàn thế giới
- Các yếu tố khác ảnh hưởng đến tỷ lệ sống
- Xu hướng ung thư
Ung thư vú là dạng ung thư phổ biến nhất ảnh hưởng đến phụ nữ và tỷ lệ mắc đang gia tăng, với khoảng 1,7 triệu trường hợp mới trên toàn thế giới mỗi năm.
Chỉ riêng tại Hoa Kỳ, Viện Ung thư Quốc gia (NCI) cho rằng 12,4% phụ nữ sẽ bị ung thư vú trong cuộc đời. Họ ước tính rằng khoảng 246.660 phụ nữ sẽ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú vào năm 2016 và 40.450 phụ nữ sẽ chết vì căn bệnh này. Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS) cũng dự đoán rằng khoảng 2.600 người đàn ông sẽ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú và 440 người đàn ông sẽ chết vì căn bệnh này.
Tỷ lệ sống sót theo giai đoạn ung thư vú
Tỷ lệ sống sót sau 5 năm là tỷ lệ phần trăm của những người còn sống sau năm năm được chẩn đoán. Đối với phụ nữ bị ung thư vú, 89,7 phần trăm sống sót trong năm năm sau khi chẩn đoán. Tỷ lệ sống này bao gồm tất cả phụ nữ bị ung thư vú bất kể giai đoạn hay tiểu loại.
Con số đó thay đổi lớn theo giai đoạn ung thư tại thời điểm chẩn đoán. Các giai đoạn của ung thư vú liên quan đến mức độ ung thư đã phát triển và mức độ lan rộng của nó.
Giai đoạn 0 là giai đoạn tiền ung thư và đại diện cho các tế bào không điển hình hoặc bất thường, nhưng không có tế bào ung thư xâm lấn. Giai đoạn 1 là khi khối u nhỏ và khu trú ở vú. Giai đoạn 2 là khi khối u nhỏ hơn 2 cm (cm) nhưng đã lan đến các hạch bạch huyết, hoặc từ 2 đến 5 cm nhưng chưa lan đến các hạch bạch huyết. Ung thư vú giai đoạn 3 bao gồm nhiều loại khác nhau, bao gồm ung thư đã di căn sang da, thành ngực hoặc nhiều hạch bạch huyết trong hoặc gần vú. Giai đoạn 4 là ung thư vú di căn, có nghĩa là nó đã lan đến một hoặc nhiều phần xa của cơ thể, phổ biến nhất là đến xương, phổi hoặc gan.
Nói chung, ung thư vú sớm được chẩn đoán và điều trị, cơ hội sống sót lâu dài càng cao.
NCI báo cáo rằng 61,4% phụ nữ được chẩn đoán ở giai đoạn địa phương hoặc giai đoạn 1. Tại thời điểm này, tỷ lệ sống sót sau 5 năm là rất cao: từ 98,8 đến 100%. Đối với những phụ nữ được chẩn đoán ở giai đoạn 2, con số đó giảm xuống còn 93%. Phụ nữ được chẩn đoán ở giai đoạn 3 có 72% khả năng sống sót sau năm năm hoặc hơn, và những phụ nữ được chẩn đoán ở giai đoạn 4 có khả năng 22%.
Tỷ lệ sống theo tuổi
Nguy cơ phát triển ung thư vú tăng lên khi bạn già đi. Trong số 60.290 phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú ở Hoa Kỳ mỗi năm, có ít hơn 3 phần trăm trong số họ dưới 40 tuổi. Độ tuổi trung bình mà phụ nữ được chẩn đoán ung thư vú là 62 tuổi. Tuổi trung bình của tử vong do ung thư vú là 68.
Tỷ lệ sống theo chủng tộc
Chủng tộc cũng có thể đóng một vai trò. Phụ nữ da trắng rất có thể được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú. Từ năm 2009 đến 2013, 128 trên 100.000 phụ nữ da trắng được chẩn đoán mắc bệnh. Tuy nhiên, có sự khác biệt trong nhóm đó: phụ nữ da trắng không phải gốc Tây Ban Nha có nhiều khả năng được chẩn đoán hơn so với phụ nữ da trắng gốc Tây Ban Nha.
Phụ nữ da đen là nhóm có khả năng mắc ung thư vú cao thứ hai (125,2 trên 100.000 phụ nữ), tiếp theo là phụ nữ đảo châu Á và Thái Bình Dương (97,3 trên 100.000), Tây Ban Nha (92,4 trên 100.000), và phụ nữ thổ dân da đỏ và thổ dân da đỏ ở Mỹ (81,2 trên 100.000 ).
Kết quả sống sót cũng thay đổi theo chủng tộc và dân tộc. Phụ nữ châu Á có kết quả sống sót sau 5 năm cao nhất, ở mức 90,7%. Trong cộng đồng đó, phụ nữ Nhật Bản có tỷ lệ sống sót cao nhất (93%) và phụ nữ Filipina thấp nhất (89%).
Phụ nữ da trắng không phải gốc Tây Ban Nha có tỷ lệ sống sót sau 5 năm cao thứ hai, ở mức 88,8%, tiếp theo là phụ nữ thổ dân da đỏ và thổ dân Alaska (85,6%), phụ nữ đảo Thái Bình Dương (85,4%) và phụ nữ Tây Ban Nha (83,8%). Phụ nữ da đen có tỷ lệ sống sót sau 5 năm thấp nhất, ở mức 77,5%, mặc dù là nhóm có khả năng mắc ung thư vú cao thứ hai.
Ung thư vú trên toàn thế giới
Năm 2012, ước tính có khoảng 1,7 triệu ca ung thư vú mới trên toàn thế giới. Và khoảng 508.000 phụ nữ chết vì căn bệnh này trên toàn thế giới mỗi năm.
Cả tỷ lệ mắc và tỷ lệ sống khác nhau rất nhiều từ vùng này sang vùng khác. Phụ nữ ở các nước phát triển thường có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn nhiều so với phụ nữ ở các nước thu nhập trung bình và thấp.
Bắc Mỹ và Tây Âu có khả năng mắc ung thư vú cao nhất, với hơn 90 phụ nữ trên 100.000 người mắc bệnh. Các quốc gia ở Đông và Trung Phi, cũng như ở Đông và Nam Trung Á, có tỷ lệ mắc thấp nhất, với ít hơn 20 phụ nữ trên 100.000 người mắc bệnh.
Tỷ lệ sống cao nhất ở Bắc Mỹ, Scandinavia và các quốc gia như Brazil, Phần Lan và Israel. Tỷ lệ sống trung bình khoảng 60% ở các nước thu nhập trung bình và 40% ở các nước thu nhập thấp.
Các yếu tố khác ảnh hưởng đến tỷ lệ sống
Một số loại ung thư vú tích cực hơn những loại khác. Tỷ lệ sống sót sau năm năm có xu hướng thấp hơn đối với những phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú âm tính ba (TNBC). TNBC có nhiều khả năng lây lan và tái phát, đặc biệt là trong ba đến năm năm đầu tiên. Sau năm năm, nguy cơ đó có thể thấp hơn so với các loại ung thư vú khác. Phụ nữ Mỹ gốc Phi có nhiều khả năng mắc loại ung thư vú tích cực hơn này.
Xu hướng ung thư
Nhìn chung, tỷ lệ tử vong do ung thư nói chung ở Hoa Kỳ đã giảm đáng kể trong hai thập kỷ qua và tổng cộng là 23% từ năm 1991 đến 2012. Đối với bệnh ung thư vú ở phụ nữ, tỷ lệ tử vong đã giảm 36% từ năm 1989 đến 2012 .
Và trong 30 năm qua, tỷ lệ sống sót tương đối 5 năm đối với bệnh ung thư vú đã tăng 21,3%, theo ACS. Năm 1975, tỷ lệ sống sót sau 5 năm đối với phụ nữ là 75,2%, nhưng năm 2008, con số này là 90,6%. Điều này phần lớn là do các nỗ lực sàng lọc gia tăng, dẫn đến phát hiện và điều trị sớm.
Nếu bạn mới được chẩn đoán, hãy nhớ rằng tỷ lệ sống chỉ là thống kê chung. Họ có thể không phản ánh thực tế rằng các phương pháp chẩn đoán và điều trị ung thư vú đang được cải thiện mọi lúc. Và mọi người đều khác nhau. Quan điểm cá nhân của bạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, vì vậy hãy nói chuyện với bác sĩ về tiên lượng của bạn để có ý tưởng tốt hơn về những gì mong đợi.