Tác Giả: Marcus Baldwin
Ngày Sáng TạO: 17 Tháng Sáu 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 17 Tháng MườI MộT 2024
Anonim
Giới thiệu về chất ức chế men sao chép ngược Nucleoside / Nucleotide (NRTIs) - Chăm Sóc SứC KhỏE
Giới thiệu về chất ức chế men sao chép ngược Nucleoside / Nucleotide (NRTIs) - Chăm Sóc SứC KhỏE

NộI Dung

Tổng quat

HIV tấn công các tế bào trong hệ thống miễn dịch của cơ thể. Để lây lan, virus cần xâm nhập vào các tế bào này và tạo ra các bản sao của chính nó. Các bản sao sau đó được giải phóng khỏi các tế bào này và lây nhiễm sang các tế bào khác.

HIV không thể được chữa khỏi, nhưng nó thường có thể được kiểm soát.

Điều trị bằng thuốc ức chế men sao chép ngược nucleoside / nucleotide (NRTIs) là một cách giúp ngăn chặn vi-rút nhân lên và kiểm soát lây nhiễm HIV. Dưới đây là NRTI là gì, cách chúng hoạt động và các tác dụng phụ mà chúng có thể gây ra.

Cách thức hoạt động của HIV và NRTI

NRTI là một trong sáu nhóm thuốc kháng vi rút được sử dụng để điều trị HIV. Thuốc kháng vi-rút can thiệp vào khả năng nhân lên hoặc sinh sản của vi-rút. Để điều trị HIV, NRTI hoạt động bằng cách ngăn chặn một loại enzym mà HIV cần tạo ra các bản sao của chính nó.

Thông thường, HIV xâm nhập vào các tế bào nhất định trong cơ thể là một phần của hệ thống miễn dịch. Những tế bào này được gọi là tế bào CD4, hoặc tế bào T.

Sau khi HIV xâm nhập vào các tế bào CD4, vi rút bắt đầu tự sao chép. Để làm như vậy, nó cần sao chép RNA của nó - cấu trúc di truyền của virus - thành DNA. Quá trình này được gọi là phiên mã ngược và cần một loại enzyme có tên là reverse transcriptase.


NRTI ngăn không cho men sao chép ngược của vi rút sao chép chính xác RNA của nó thành DNA. Không có DNA, HIV không thể tạo ra các bản sao của chính nó.

NRTI có sẵn

Hiện tại, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) đã phê duyệt bảy NRTI để điều trị HIV. Các loại thuốc này có sẵn dưới dạng thuốc riêng lẻ và ở nhiều dạng kết hợp. Các công thức này bao gồm:

  • zidovudine (Retrovir)
  • lamivudine (Epivir)
  • abacavir sulfat (Ziagen)
  • didanosine (Videx)
  • didanosine giải phóng chậm (Videx EC)
  • stavudine (Zerit)
  • emtricitabine (Emtriva)
  • tenofovir disoproxil fumarate (Viread)
  • lamivudine và zidovudine (Combivir)
  • abacavir và lamivudine (Epzicom)
  • abacavir, zidovudine và lamivudine (Trizivir)
  • tenofovir disoproxil fumarate và emtricitabine (Truvada)
  • tenofovir alafenamide và emtricitabine (Descovy)

Mẹo sử dụng

Tất cả các NRTI này đều có dạng viên nén được uống.


Điều trị bằng NRTI thường bao gồm việc dùng hai NRTI cũng như một loại thuốc từ một nhóm thuốc kháng retrovirus khác.

Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sẽ lựa chọn phương pháp điều trị dựa trên kết quả xét nghiệm cung cấp thông tin quan trọng về tình trạng cụ thể của một người. Nếu người đó đã dùng thuốc kháng vi-rút trước đó, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của họ cũng sẽ tính đến yếu tố này khi quyết định các lựa chọn điều trị.

Khi bắt đầu điều trị HIV, thuốc cần được dùng hàng ngày theo đúng hướng dẫn. Đây là cách quan trọng nhất để giúp quản lý các trường hợp nhiễm HIV. Các mẹo sau đây có thể giúp đảm bảo tuân thủ điều trị:

  • Uống thuốc vào cùng một thời điểm mỗi ngày.
  • Sử dụng hộp thuốc hàng tuần có các ngăn cho mỗi ngày trong tuần. Các hộp này có sẵn ở hầu hết các hiệu thuốc.
  • Kết hợp uống thuốc với một công việc được thực hiện mỗi ngày. Điều này làm cho nó trở thành một phần của thói quen hàng ngày.
  • Sử dụng lịch để kiểm tra những ngày uống thuốc.
  • Đặt lời nhắc báo thức để dùng thuốc trên điện thoại hoặc máy tính.
  • Tải xuống ứng dụng miễn phí có thể đưa ra lời nhắc khi đã đến lúc dùng thuốc. Tìm kiếm "ứng dụng nhắc nhở" sẽ cung cấp nhiều tùy chọn. Dưới đây là một số để thử.
  • Yêu cầu một thành viên trong gia đình hoặc bạn bè đưa ra lời nhắc để uống thuốc.
  • Sắp xếp để nhận lời nhắc nhắn tin văn bản hoặc điện thoại từ nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

Tác dụng phụ tiềm ẩn

NRTI có thể gây ra tác dụng phụ. Một số tác dụng phụ thường gặp hơn những tác dụng phụ khác và những loại thuốc này có thể ảnh hưởng khác nhau đến những người khác nhau. Phản ứng của mỗi người một phần phụ thuộc vào loại thuốc mà nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của họ kê đơn và những loại thuốc khác mà người đó dùng.


Nói chung, các NRTI mới hơn, chẳng hạn như tenofovir, emtricitabine, lamivudine và abacavir, gây ra ít tác dụng phụ hơn các NRTI cũ hơn, chẳng hạn như didanosine, stavudine và zidovudine.

Các loại tác dụng phụ

Các tác dụng phụ thông thường thường biến mất theo thời gian. Chúng có thể bao gồm:

  • đau đầu
  • buồn nôn
  • nôn mửa
  • bệnh tiêu chảy
  • đau bụng

Tuy nhiên, một số tác dụng phụ nghiêm trọng nhất định đã được báo cáo. Các tác dụng phụ hiếm gặp có thể bao gồm:

  • phát ban nghiêm trọng
  • giảm mật độ xương
  • bệnh thận mới hoặc nặng hơn
  • nhiễm mỡ gan (gan nhiễm mỡ)
  • loạn dưỡng mỡ (phân bố bất thường của chất béo trong cơ thể)
  • ảnh hưởng hệ thần kinh, bao gồm lo lắng, nhầm lẫn, trầm cảm hoặc chóng mặt
  • nhiễm axit lactic

Mặc dù những tác dụng phụ này không phổ biến nhưng điều quan trọng là phải biết rằng chúng có thể xảy ra và thảo luận với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Một số tác dụng phụ có thể tránh được hoặc kiểm soát.

Bất kỳ ai gặp phải những tác dụng phụ nghiêm trọng này nên liên hệ với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của họ ngay lập tức để xác định xem họ có nên tiếp tục dùng thuốc hay không. Họ không nên tự ý ngừng dùng thuốc.

Đối phó với các tác dụng phụ có thể khó chịu, nhưng ngừng thuốc có thể tạo điều kiện cho vi rút kháng thuốc. Điều này có nghĩa là thuốc cũng có thể ngừng hoạt động để ngăn vi rút tái tạo. Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe có thể thay đổi sự kết hợp của các loại thuốc để giảm tác dụng phụ.

Nguy cơ tác dụng phụ

Nguy cơ tác dụng phụ có thể cao hơn tùy thuộc vào tiền sử bệnh và lối sống của mỗi người. Theo NIH, nguy cơ mắc một số tác dụng phụ tiêu cực có thể cao hơn nếu người đó:

  • là phụ nữ hoặc béo phì (nguy cơ duy nhất cao hơn là nhiễm axit lactic)
  • dùng các loại thuốc khác
  • có các điều kiện y tế khác

Ngoài ra, nghiện rượu có thể làm tăng nguy cơ tổn thương gan. Một người có bất kỳ yếu tố nguy cơ nào trong số này nên nói chuyện với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của họ trước khi dùng NRTI.

Mang đi

NRTI là một số loại thuốc giúp kiểm soát HIV. Đối với những loại thuốc quan trọng này, phiên bản mới hơn gây ra ít tác dụng phụ nghiêm trọng hơn phiên bản trước, nhưng một số tác dụng phụ vẫn có thể xảy ra đối với bất kỳ loại thuốc nào trong số này.

Điều quan trọng đối với những người có nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe đã kê đơn NRTI phải tuân theo kế hoạch điều trị của họ để kiểm soát HIV. Nếu họ bị tác dụng phụ từ liệu pháp kháng vi-rút, họ có thể thử các mẹo sau để giảm các tác dụng phụ đó. Quan trọng hơn, họ có thể nói chuyện với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của mình, họ có thể đưa ra đề xuất hoặc thay đổi kế hoạch điều trị để giúp giảm bớt các tác dụng phụ.

Hãy ChắC ChắN Để Nhìn

Chất làm ngọt - chất thay thế đường

Chất làm ngọt - chất thay thế đường

Chất thay thế đường là những chất được ử dụng thay thế chất ngọt bằng đường ( ucro e) hoặc rượu đường. Chúng cũng có thể được gọi là chất làm ngọt nhân tạo, chất làm...
Xét nghiệm máu CEA

Xét nghiệm máu CEA

Xét nghiệm kháng nguyên carcinoembryonic (CEA) đo nồng độ CEA trong máu. CEA là một loại protein thường được tìm thấy trong mô của một em bé đang phát triể...